Châu An Vương năm thứ 11 (Canh Dần, 391
TCN)
1.
Tần đánh đất Nghi
dương của Hàn,
chiếm mất 6 ấp.
2.
Trước đây Điền Hằng
sinh ra Tương Tử Bàn, Bàn sinh ra Trang
Tử Bạch, Bạch sinh ra Thái Công Hòa. Vào năm này, Điền Hòa dời Tề Khang Công đến
nơi ven biển, cho ăn lộc một thành để thờ cúng tổ tiên.
~o0o~
Châu An Vương năm thứ 12 (Tân Mão, 390
TCN)
1.
Tần, Tấn đánh
nhau ở Võ thành.
2.
Tề đánh Ngụy, chiếm
Tương lăng.
3.
Lỗ đánh bại quân
Tề ở Bình lục.
~o0o~
Châu An Vương năm thứ 13 (Nhâm Thìn, 389
TCN)
1.
Tần xâm lấn Tấn.
2.
Điền Hòa nước Tề
họp với Ngụy Văn Hầu cùng vua Sở và vua Vệ ở Trọc trạch, mong được
làm chư hầu. Ngụy Văn Hầu thay Hòa xin với vua Châu và các nước chư hầu, Châu An
Vương chấp thuận.
~o0o~
Châu An Vương năm thứ 15 (Giáp Ngọ, 387
TCN)
1.
Tần đánh Thục,
chiếm Nam trịnh.
2.
Ngụy Văn Hầu mất,
Thái tử Kích kế vị, là Ngụy Võ Hầu.
Võ Hầu xuôi giòng Tây hà xuống hạ
lưu, giữa giòng ngoái bảo Ngô Khởi:
- Đẹp thay núi sông vững chắc, đó là bảo
vật của nước Ngụy ta!
Khởi đáp:
- Giữ nước cốt ở đức chứ không ở hiểm.
Xưa kia họ Tam miêu bên trái có hồ Động đình, phải có hồ Bành lễ; đức nghĩa
không tu chỉnh nên bị Hạ Vũ diệt. Nơi Hạ Kiệt ở, bên trái có sông Hà, sông Tế,
bên phải có núi Thái hoa, thêm núi Y khuyết ở mặt nam, đèo Dương tràng ở mặt bắc;
cầm quyền bất nhân nên bị Thành Thang đuổi đi. Nước của Thương Trụ bên trái có
cửa Mạnh môn, bên phải có núi Thái hàng, Thường sơn ở mặt bắc, sông Đại hà chắn
ngang mặt nam; cầm quyền bất đức, vị Võ Vương giết đi. Qua đó mà xét, giữ nước
cốt ở đức chứ không ở địa thế hiểm trở. Nếu nhà vua không tu chỉnh đức, ngay cả
những người trong thuyền này cũng đều là kẻ địch!
Võ Hầu nói:
- Phải.
Ngụy lập Tướng quốc, chọn Điền Văn. Ngô Khởi không vui, hỏi Điền Văn:
- Xin luận công với ông được không?
Điền Văn đáp:
- Được.
Khởi hỏi:
- Cầm đầu ba quân, khiến sĩ tốt vui
lòng mà chết, nước địch không dám mưu đồ, ông có bằng Khởi không?
Văn đáp:
- Không bằng ông.
Khởi hỏi:
- Cai quản trăm quan, thân ái với vạn
dân, làm kho đụn đầy đủ, ông có bằng Khởi không?
Văn đáp:
- Không bằng ông.
Khởi nói:
- Giữ cõi Tây hà, khiến quân Tần không
dám tiến ra phía đông, Hàn và Triệu phục tùng, ông có bằng Khởi không?
Văn đáp:
- Không bằng ông.
Khởi nói:
- Cả ba điều ấy ông đều kém tôi, mà địa
vị của ông lại trên tôi là thế nào?
Văn nói:
- Quốc chủ còn trẻ nên trong nước còn
nghi ngại, đại thần chưa nương theo, bách tính chưa tin tưởng, như là lúc này
đây, thì nên phó thác cho ông hay cho tôi?
Khởi im lặng hồi lâu rồi nói:
- Đúng là phải phó thác cho ông vậy!
Lâu sau, Tướng quốc của Ngụy là Công Thúc, vốn lấy vợ là Công chúa, muốn hãm hại
Ngô Khởi. Người đầy tớ của Công Thúc nói:
- Đuổi Khởi cũng dễ thôi. Khởi là người
ngang tàng tự đắc. Ông hãy nói trước với nhà vua rằng: ‘Ngô Khởi là người hiền,
mà nước của nhà vua thì nhỏ, thần sợ Khởi không có lòng muốn ở lại. Nhà vua sao
không thử dạm gả con gái, Khởi nếu không có lòng muốn ở lại ắt sẽ từ chối.’ Ông
rồi tiện dịp mời Khởi đến nhà và làm cho Công chúa xỉ nhục ông, Khởi thấy Công
chúa khinh bỉ ông, ắt sẽ từ chối hôn thú, thế là trúng phải kế của ông.
Công Thúc làm theo, Ngô Khởi quả nhiên
từ chối không lấy Công chúa. Ngụy Vũ Hầu sinh nghi, không còn tin tưởng; Khởi sợ
bị giết, bèn chạy sang Sở.
Sở Điệu Vương vốn nghe tiếng về tài năng của Khởi, Khởi đến liền được bổ làm Tướng
quốc. Khởi minh tu luật pháp, chọn lọc điều lệnh, phế bỏ những chức quan không
cần thiết, cắt đứt những họ hàng quá xa với nhà vua, dùng tiền của nuôi dưỡng
các chiến sĩ can trường, cốt làm cho quân đội hùng mạnh, đánh đổ bọn du sĩ rao
giảng Hợp tung và Liên hoành. Sở thế là phía nam bình định Bách Việt, phía bắc
đẩy lùi Tam Tấn, phía tây đánh Tần, chư hầu đều sợ sự hùng cường của Sở, nhưng
quý thích và đại thần nước Sở lại có nhiều người oán Ngô Khởi.
3.
Tần Huệ Công chết,
con là Xuất Công kế vị.
4.
Triệu Võ Hầu mất,
người trong họ tái lập Thái tử Chương của Liệt Hầu, là Kính Hầu.
5.
Hàn Liệt Hầu mất,
con là Văn Hầu kế vị.
~o0o~
Châu An Vương năm thứ 17 (Bính Thân, 385
TCN)
1.
Thứ trưởng của Tần
là Cải tôn Hiến Công lên ngôi ở Hà Tây, chống Tần Xuất Công; cuối cùng giết Tần
Xuất Công cùng mẹ, vứt xác xuống vực.
2.
Tề đánh Lỗ.
3.
Hàn đánh Trịnh,
chiếm Dương thành; rồi
đánh Tống, bắt giữ Tống Công.
4.
Tề Thái Công mất,
con là Hoàn Công Ngọ kế vị.
~o0o~
Châu An Vương năm thứ 19 (Mậu Tuất, 383
TCN)
1.
Ngụy đánh bại
quân Triệu ở Thố đài.
~o0o~
Châu An Vương năm thứ 20 (Kỷ Hợi, 382
TCN)
1.
Có nhật thực toàn
phần.
~o0o~
Châu An Vương năm thứ 21 (Canh Tí, 381
TCN)
1.
Sở Điệu Vương chết.
Quý thích, đại thần khởi loạn, đánh Ngô Khởi; Khởi chạy đến núp đằng sau thi thể
của nhà vua. Bọn người tấn công bắn chết Khởi, trúng cả vào thi thể vua Sở. Đến
khi chôn cất đã hoàn tất, Túc Vương lên ngôi, sai Lệnh doãn tận diệt
những người làm loạn; bị kết tội diệt tộc đến hơn 70 gia đình.
~o0o~
Châu An Vương năm thứ 22 (Tân Sửu, 380
TCN)
1.
Tề đánh Yên, chiếm
Tang khâu. Ngụy, Hàn, và Triệu đánh Tề, tiến đến Tang khâu.
~o0o~
Châu An Vương năm thứ 23 (Nhâm Dần, 379
TCN)
1.
Triệu đánh Vệ,
nhưng không hạ được.
2.
Tề Khang Công chết,
không con cái; họ Điền thế là chiếm hữu tất cả nước Tề.
3.
Cũng năm này, Tề
Hoàn Công
chết, con là Uy Vương Nhân Tề kế vị.
~o0o~
Chân An Vương năm thứ 24 (Quý Mão, 378
TCN)
1.
Địch đánh bại
quân Ngụy ở đất Quái.
2.
Ngụy, Hàn, Triệu
đánh Tề, tiến đến Linh khâu.
3.
Tấn Hiếu Công chết,
con là Tĩnh Công Câu Tửu kế vị.
~o0o~
Châu An Vương năm thứ 25 (Giáp Thìn, 377
TCN)
1.
Thục đánh Sở, chiếm
Tư phương.
2.
Tử Tư tiến cử
Cẩu Biến với Vệ Hầu rằng:
- Tài như ông ta có thể thống lĩnh năm
trăm chiến xa.
Vua Vệ nói:
- Ta biết hắn có tài làm tướng; nhưng
Biến từng làm lại, đi thu thuế mà ăn của dân mất hai quả trứng; nên không còn
được dùng.
Tử Tư nói:
- Thánh nhân xét người, cũng tựa như
thợ mộc dùng gỗ vậy. Giữ phần tốt, bỏ phần xấu. Thế nên cây tử liên chu vi rộng
hàng ôm tay dẫu có mục ruỗng mất vài thước, người thợ giỏi vẫn không vứt đi.
Nay nhà vua đang ở thời chiến quốc, phải tuyển chọn kẻ sĩ làm nanh vuốt, lại vì
hai quả trứng mà vứt đi một tướng can thành, điều này há nên để các lân bang biết
được.
Vua Vệ vái hai lạy và nói:
- Xin kính cẩn thụ giáo.
Vệ Hầu bàn tính sai, mà các quần thần đồng âm hùa theo. Tử Tư nói:
- Theo như ta xét, nước Vệ chính là thứ
gọi là ‘vua không ra vua, tôi không ra tôi’.
Công-khâu Ý Tử hỏi:
- Sao lại như thế?
Tử Tư nói:
- Nhà vua tự cho là đúng thì chẳng ai có
ý kiến gì thêm. Dù như có đúng chăng nữa, thì cũng phải do hơn được những ý kiến
khác; huống chi phụ họa với sai trái, chẳng càng tệ hơn ư! Đã không biết xét việc
đúng sai mà còn mừng vì mình được người tán tụng, hôm ám còn gì hơn! Đã không
biết phán đoán lý lẽ được trình bày mà còn a dua để được bao dung, siểm nịnh
còn gì hơn! Vua hôn ám với tôi siểm nịnh mà đặt trên bách tính, bách tính sẽ
không theo. Nếu cứ mãi như thế, quốc gia vô loại!
Tử Tư nói với Vệ Hầu rằng:
- Quốc sự nhà vua ngày càng sai trái!
Vua Vệ hỏi:
- Tại làm sao?
Đáp rằng:
- Đều có nguyên cớ cả. Nhà vua nói ra
tự cho là phải, các Khanh Đại phu chẳng ai dám chỉ ra cái sai; các Khanh Đại
phu nói ra tự cho là phải, các sĩ, thứ dân chẳng ai dám chỉ ra cái sai. Cả vua
cả tôi đều tự cho mình là hay, mà hạ cấp đều đồng thanh khen hay; khen hay thì
thuận ý được phúc lành, chỉ trích thì trái ý nên mang họa, như thế ai nấy chỉ cầu
an để được sống! Kinh Thi có câu: ‘Cụ viết dư thánh, thùy tri ô chi thư hung?’
(Ai cũng là thánh, nhưng có ai phân biệt được quạ trống hay mái?). Đích
thị là vua tôi nhà ngài!
3.
Lỗ Mục Công mất,
con là Cung Công Phấn kế vị.
4.
Hàn Văn Hầu mất,
con là Ai Hầu kế vị.
~o0o~
Châu An Vương năm thứ 26 (Ất Tị, 376 TCN)
1.
Chân An Vương mất,
con là Liệt Vương Hỉ kế vị.
2.
Ngụy, Hàn, Triệu hợp
nhau phế Tấn Tĩnh Công làm gia nhân và chia nhau phần đất còn lại của Tấn.
~o0o~
Châu Liệt Vương năm thứ 1 (Bính Ngọ, 375
TCN)
1.
Có nhật thực.
2.
Hàn diệt Trịnh,
nhân đấy dời đô đến Trịnh.
3.
Triệu Kính Hầu mất,
con là Thành Hầu Chủng kế vị.
~o0o~
Châu Liệt Vương năm thứ 3 (Mậu Thân, 373
TCN)
1.
Yên đánh bại quân
Tề ở Lâm hồ.
2.
Lỗ đánh Tề, kéo
vào Dương quan.
3.
Ngụy đánh Tề, tiến
đến Bác lăng.
4.
Yên Hi Công mất,
con là Hoàn Công kế vị.
5.
Tống Hưu Công mất,
con là Ích Công kế vị.
6.
Vệ Thận Công mất,
con là Thanh Công Huấn kế vị.
~o0o~
Châu Liệt Vương năm thứ 4 (Kỷ Dậu, 372
TCN)
1.
Triệu đánh Vệ,
chiếm 73 ấp nhỏ.
2.
Ngụy đánh bại
quân Triệu ở Bắc Lận.
~o0o~
Châu Liệt Vương năm thứ 5 (Canh Tuất, 371
TCN)
1.
Ngụy đánh Sở, chiếm
Lỗ dương.
2.
Nghiêm Toại giết Hàn
Ai Hầu, người trong họ lập con của Ai Hầu là Ý Hầu kế vị. Trước đó, Ai Hầu dùng
Hàn Hội làm Tướng quốc nhưng lại sủng ái Nghiêm Toại, hai người này chỉ muốn tiêu
diệt nhau. Nghiêm Toại sai người tìm giết Hàn Hội trong triều, Hội chạy đến nơi
Ai Hầu, Ai Hầu che chở cho y. Kẻ ấy đâm Hàn Hội, trúng cả Ai Hầu.
3.
Ngụy Võ Hầu chết,
chưa lập Thái tử, con là Oanh tranh ngôi với Công trọng Hoãn, trong nước bấn loạn.
~o0o~
Châu Liệt Vương năm thứ 6 (Tân Hợi, 370
TCN)
1.
Tề Uy Vương vào
triều kiến nhà Châu. Lúc bấy giờ nhà Châu nhỏ yếu, chư hầu không ai đến chầu, chỉ
có mình Tề vào chầu, thiên hạ vì thế cho Uy Vương là hiền.
2.
Triệu đánh Tề đến
đất Quyên.
3.
Ngụy đánh bại
quân Triệu ở đất Hoài.
4.
Tề Uy Vương gọi Đại
phu thành Tức mặc đến,
nói với ông ta rằng:
- Từ khi ông đến Tức mặc, mỗi ngày đều
bị chê bai. Nhưng khi ta sai người đi thanh tra Tức mặc, thấy ruộng đồng được
khai phá, nhân dân no đủ, quan lại vô sự, miền đông được yên ổn; hẳn là vì ông
không cầu cạnh tả hữu của ta để được trợ giúp!
Rồi phong cho ông ta ấp vạn hộ. Uy
Vương lại gọi Đại phu thành Cử đến, nói với ông ta rằng:
- Từ khi ông giữ đất A, mỗi
ngày đều được khen ngợi. Ta sai người đến thanh tra A, ruộng đồng không được
khai phá, nhân dân nghèo đói. Dạo trước khi Triệu xâm phạm đất Quyên, ông không
đến cứu; Vệ chiếm Tiết lăng, ông
cũng không hay; hẳn là vì ông hối lộ tả hữu của ta để cầu được khen!
Ngay hôm ấy, cho nấu Đại phu đất A
cùng những tả hữu đã từng khen ông ta. Thế là quần thần đều run sợ, không ai
dám che đậy điều giả dối, làm việc tận tình; nước Tề nhờ đó thịnh trị, trở
thành hùng mạnh trong thiên hạ.
5.
Sở Túc Vương mất,
không con, người em kế vị, tức Tuyên Vương.
6.
Tống Ích Công mất,
con là Dịch Thành kế vị.
~o0o~